Ông Troy Griffiths, Phó Giám đốc Điều hành Savills Việt Nam, nói rằng xu hướng xây dựng căn hộ dịch vụ ở Hà Nội đã bắt đầu di chuyển sang các tỉnh lân cận như Bắc Ninh, Hưng Yên và Hải Dương. Điều này là do tốc độ thu hút FDI mạnh mẽ và hạ tầng kết nối tốt.

Trong khi đó, nhu cầu thuê căn hộ đa dạng tại TP.HCM đã thúc đẩy các dự án ở nhiều phân khúc khác nhau nhằm đáp ứng nhiều loại khách hàng.

FDI tăng nhu cầu căn hộ dịch vụ.

Ông Troy Griffiths nói rằng nhu cầu cao cho phân khúc căn hộ dịch vụ cao cấp dành cho các chuyên gia nước ngoài đã được thúc đẩy bởi sự gia tăng mạnh mẽ của FDI vào Việt Nam trong những năm gần đây.

Mặc dù nguồn vốn đầu tư nước ngoài năm nay có một chút giảm, nhưng nếu xem xét số liệu của ba năm trước, chúng ta thấy rằng luôn có khoảng 2-4 tỷ USD FDI mới đăng ký, chủ yếu tập trung vào các nhà máy điện, khí hóa lỏng và năng lượng. Ông Troy nói rằng, mặc dù không đề cập đến các dự án năng lượng lớn này, nhưng số lượng FDI mới đăng ký năm nay cho thấy FDI vẫn khả quan.

Phó Giám đốc Điều hành Savills đồng ý với sự thay đổi của xu hướng FDI. Theo ông, chi phí cạnh tranh trên nhiều lĩnh vực và yếu tố đã giúp Việt Nam thu hút đầu tư nước ngoài. FDI đã chuyển sang tập trung vào tối ưu hóa chuỗi cung ứng và dịch vụ cho thuê chỗ đặt máy chủ, đặc biệt là trong ngành điện tử.

Điều này có lợi cho nền kinh tế. Ông nói rằng nhu cầu sử dụng căn hộ dịch vụ tăng lên khi nhiều quản lý nước ngoài đến làm việc.

Ông nói rằng thị trường căn hộ dịch vụ ở Hà Nội chủ yếu nằm trong hai phân khúc hạng A và B, so sánh với xu hướng tăng trưởng của hai thành phố lớn nhất của quốc gia. Sự phát triển hạ tầng kết nối giữa Hà Nội và các thành phố lân cận như Bắc Ninh, Hưng Yên và Hải Dương đang khiến nhu cầu mở rộng ra các khu vực lân cận của Hà Nội.

Có khoảng 2.000 căn hộ dịch vụ mới sắp ra mắt tại Hà Nội, chiếm khoảng 30% tổng số căn hộ dịch vụ có sẵn tại thị trường này.

Với nhiều dự án phân khúc hạng C tại TP.HCM, nhu cầu về căn hộ dịch vụ đã tăng lên. Khách thuê căn hộ dịch vụ tại TP.HCM có nhiều thu nhập và bao gồm các chuyên gia từ nhiều lĩnh vực và nghề nghiệp khác nhau, đáp ứng nhiều nhu cầu khác nhau. Điều này khiến thị trường căn hộ dịch vụ của TP.HCM và Hà Nội khác nhau.

Ông nói rằng thị trường căn hộ dịch vụ vẫn hoạt động tốt ngay cả trong giai đoạn khó khăn như COVID-19. Hiệu suất và chi phí tại Hà Nội gần như không bị ảnh hưởng. TP.HCM đã có một sự giảm nhẹ nhưng hiện đang phục hồi tốt. Do đó, có thể nói rằng lĩnh vực bất động sản này hấp dẫn với tình hình hoạt động ổn định.

Cạnh tranh khốc liệt về căn hộ cho thuê

Dòng vốn FDI đã thúc đẩy nhu cầu căn hộ dịch vụ, nhưng tín hiệu phát triển của FDI đã chậm lại ở TP.HCM, do đó sẽ có nhiều khó khăn trong tương lai.

Theo Cục Thống kê TP.HCM, tổng vốn FDI đạt 1,1 tỷ USD trong sáu tháng đầu năm nay giảm 19% theo năm. Từ 597 dự án mới, FDI đăng ký mới đạt 192 triệu USD.

Mặc dù nhu cầu lưu trú dài hạn từ các doanh nghiệp vẫn ổn định, nhưng sự gia tăng có thể gặp khó khăn do cạnh tranh khốc liệt từ các căn hộ chung cư cho thuê. Trong ba năm gần đây, có hơn 40.000 căn hộ chung cư đã được giao cho thuê.

Khách thuê chính của phân khúc căn hộ dịch vụ là người nước ngoài làm việc tại các khu công nghiệp và công ty ở TP.HCM, Long An, Đồng Nai và Bình Dương. Các dự án kết hợp thuê dài hạn và ngắn hạn để tối ưu hóa công suất.

Loại căn studio và phòng ngủ luôn được lựa chọn vì nhu cầu cao về chỗ ở giá cả phải chăng. Đơn vị đã nhận được 1.849 căn hộ từ 48 dự án hạng B và C mới trong năm qua. Chủ đầu tư tập trung vào các căn hộ studio và phòng ngủ, chiếm 85% thị phần nguồn cung mới.

Nguồn cung đạt 8.490 căn ổn định hàng quý và tăng 21% hàng năm, theo báo cáo thị trường quý 2/2024. Thành phố Hồ Chí Minh dự kiến sẽ có ít nguồn cung trong tương lai. Đến năm 2025, năm dự án với khoảng 500 căn sẽ gia nhập, với ba dự án hạng B và C nằm ở Quận 1.

Với nhu cầu lưu trú ngắn hạn thấp vào mùa thấp điểm, công suất cho thuê của phân khúc căn hộ dịch vụ ở TP.HCM giảm 1% mỗi quý và 4% mỗi năm. Giá thuê tăng 1% mỗi quý và không đổi theo năm. Giá đạt 513.000 đồng/m2.

Giá thuê của mười bốn dự án hạng A và B tăng trung bình 3% mỗi quý do giá thuê đã được giữ nguyên hơn một năm và chủ đầu tư đã ngừng cung cấp các chính sách khuyến mãi. Trong số 14 dự án, trong đó 74% nguồn cung, có 9 dự án đạt ít nhất 80% công suất.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *